Bài dự thi HTNM4 – Thể loại Bài Viết
CÓ THỂ ĐƯỢC HƠN 12 TỶ ĐÔ-LA KIỀU HỐI RẤT NHIỀU
Ước tính lượng kiều hối chuyển về Việt Nam trong năm 2015 đã vượt mốc 12 tỷ đô-la, tương đương hơn 6% GDP. So với các nước trong khu vực, tỷ lệ kiều hối so với GDP của Việt Nam chỉ thấp hơn Philippines và Bangladesh. Nhìn trước mắt thì đây là một tín hiệu vui vì nhiều người Việt khi đi xa vẫn luôn quan tâm, chăm lo đến người thân, đến nước nhà. Tuy nhiên, nhìn từ góc độ phát triển, điều này quả là đáng lo vì hai lý do.
Thứ nhất, kiều hối cao đồng nghĩa với những vấn đề xã hội đang tồn tại. Không thể phủ nhận rằng một số người muốn làm việc ở nước ngoài, nơi có môi trường sống và làm việc tốt hơn, hay một số người muốn bôn ba một thời gian để tích lũy kỹ năng và kinh nghiệm trước khi trở về. Tuy nhiên, một số lượng không nhỏ người Việt phải xuất khẩu vì họ không thể tìm được việc làm có đủ thu nhập để nuôi sống bản thân và gia đình ở trong nước và một bộ phận không nhỏ những người phụ nữ phải lấy chồng ngoại quốc vì lý do kinh tế.
Một việc làm khả dĩ trên chính quê hương của mình hay một người bạn đời cùng ngôn ngữ, cùng văn hóa để có thể chia sẻ những lúc vui buồn luôn là mong ước của hầu hết mọi người. Khi buộc phải xa gia đình, xa quê hương vì miếng cơm manh áo thì sợ dây ràng buộc và gắn kết trở nên lỏng lẻo hơn. Khi vợ, chồng, con cái xa cách nhau, nhiều vấn đề xã hội sẽ phát sinh và trở nên gay gắt hơn.
Thứ hai, kiều hối cao đồng nghĩa với chưa phát triển đúng tiềm năng. Một ước lượng đơn giản của tác giả cho thấy 12 tỷ đô-la kiều hối đang làm GDP của Việt Nam “mất” khoảng 100 tỷ đô-la hay hơn 50%. Kết quả phân tích định lượng dựa vào thống kê lượng kiều hối và GDP của Ngân hàng Thế giới chỉ ra rằng cứ tăng 1% kiều hối so với GDP thì GDP bình quân đầu người của 154 quốc gia có số liệu về kiều hối năm 2012 trên thế giới thấp hơn 8.3%. Hiểu một cách đơn giản, một đồng kiều hối tương quan với mức giảm GDP 8,3 đồng. Con số tương tự đối với bình quân của 18 nước trong khu vực là 21,8 đồng.
Trên thực tế, số tiền được gửi về quê hương bản quán của hầu hết mọi người chỉ chiếm một phần rất nhỏ trong thu nhập của họ (có lẽ là không quá một tháng lương cho một năm). Đối với những người đi làm theo diện xuất khẩu lao động có thời hạn, tỷ lệ số tiền gửi về so với thu nhập của họ có thể cao, nhưng đối với những người sống và làm việc dài hạn ở nước ngoài với một phần rất lớn là lao động có kỹ năng thì tỷ lệ này thường rất khiêm tốn. Số tiền được gửi về hàng năm của họ chừng nửa đến một tháng lương đã là quá cao.
Vấn đề ở chỗ là những người thuộc diện xuất khẩu lao động có thời hạn thường là lao động có kỹ năng thấp và thu nhập rất khiêm tốn trong khi phần lớn kiều hối có lẽ là do những người đã định cư hay lao động có kỹ năng đang làm việc dài hạn ở nước ngoài. Giá trị mà một người làm ra tính vào GDP của nước sở tại hay phần chi tiêu tại chỗ của họ sẽ làm cho rất nhiều người ở đó được hưởng lợi. Đây cũng chính là mất mát của quốc gia có người phải ra đi.
Với một giả định lý tưởng rằng Việt Nam có thể tạo ra được môi trường làm việc tương tự cho những người có gửi kiều hối về làm việc trong nước thì GDP hiện tại của nước ta có thêm từ 100 đến 261 tỷ đô-la. Điều này cho thấy, kiều hối là thước đo của sự mất mát và tụt hậu và đây là vấn đề thực tế mà nhiều nước đang gặp phải.
Ví dụ, ở thập niên 1950, vị trí và những điều kiện khác của Philippines không thua kém hầu hết các nước trong khu vực (có lẽ chỉ xếp sau Nhật Bản). Từng là thuộc địa của cả Mỹ và Nhật, rất nhiều người ở quốc gia mà hầu hết người dân nói tiếng Anh này đã ra nước ngoài trau dồi kỹ năng. Tuy nhiên, một phần không nhỏ trong số họ đã chọn hình thức gửi tiền về quê thay vì trở về. Kết quả, giờ đây, Philippines trở thành quán quân về kiều hối trong khu vực trong khi GDP bình quân đầu người thấp hơn tất cả các nước có thể so sánh. Gần nhất là Indonesia, Thái Lan hay Malaysia. So với Singapore, Hàn Quốc và Đài Loan thì khoảng cách còn lớn hơn nhiều.
Tương phản với Philippines, một tỷ lệ lớn người Hàn Quốc, Đài Loan và Singapore sau khi du học đã trở về quê hương làm việc để tạo ra sự thịnh vượng cho đất nước của họ. Một sự tương quan ngược rất rõ ràng.
Những ước lượng được sử dụng trong bài viết này là rất sơ bộ. Cần một bộ dữ liệu đầy đủ hơn để phân tích các yếu tố liên quan, nhất là tỷ lệ kiều hối do yếu tố lịch sử để lại và tỷ lệ kiều hối do Việt Nam không tạo được môi trường làm việc, môi trường kinh doanh tốt để cho lực lượng lao động chất lượng cao trở về hay có những đóng gó thiết thực. Tuy nhiên, kết luận có thể rút ra là với 10 tỷ đô la kiều hối, Việt Nam đang mất quá nhiều. Kiều hối nhiều là con số rất không đáng tự hào vì nó đang phản ảnh sự tụt hậu của chúng ta.
CHUYỆN VỀ HAY Ở CỦA DU HỌC SINH
12 trong số 13 quán quân Olympia ở lại nước ngoài làm việc sau khi học xong đã gây ra những tranh luận trái chiều, nhất là sự kiện gần đây xảy ra đối với Doãn Minh Đăng ở Cần Thơ. Trước mắt, việc này có thể tạo ra cái nhìn không thiện cảm trong xã hội. Tuy nhiên, có nhiều khía cạnh tích cực cũng như những vấn đề nghiêm túc cần được đặt ra.
Thứ nhất, có thể khẳng định rằng hầu hết du học sinh đều muốn làm gì đó tốt cho đất nước. Đơn giản, mục tiêu sống của hầu hết mọi người là khẳng định mình trong xã hội. Được nhìn nhận trong cộng đồng quen thuộc hay quê hương của mình thường dễ dàng và đáng tự hào hơn cả. Khi vinh quy ai cũng muốn bái tổ. Nói một cách khác, khi công việc và cuộc sống ổn định thì hầu hết mọi người sẽ bắt đầu quan tâm và có hành động cụ thể hướng về nơi chôn nhau cắt rốn của mình. Đơn giản nhất là gửi tiền về. Do vây, lo lắng du học sinh ở lại và không đoái hoài gì đến đất nước là không có cơ sở.
Thứ hai, việc chọn ở lại khi tốt nghiệp đơn giản chỉ là một bước trong chu trình thông thường. Ở hay về có lẽ là câu hỏi mà bất cứ du học sinh nào cũng phải đặt ra nhiều lần, nhất là khi học xong. Lựa chọn thường là ở lại. Mục tiêu của hầu hết mọi người khi đi làm thường chỉ là có mức thu nhập ổn định đảm bảo cho cuộc sống và cơ hội thăng tiến hay được xã hội công nhận. Khi mới học xong, áp lực cơm áo, gạo tiền thường rất lớn nên ưu tiên thường là có việc làm ngay với thu nhập ổn định. Hơn thế, du học sinh thường có nhiều thông tin về các cơ hội việc làm ở nước sở tại nhiều hơn là cơ hội ở Việt Nam. Do vậy, việc nhiều người ở lại là có thể giải thích.
Thứ ba, đây là cơ hội để các du học sinh trau dồi kỹ năng, kiến thức và kinh nghiệm thực tiễn. Kinh nghiệm làm việc trong môi trường hiện đại đòi hỏi tính chuyên nghiệp cao là hết sức quan trọng, nhất là trong bối cảnh ở Việt Nam mọi thứ đang còn rất sơ khai.
Thứ tư, việc ở lại khi mới học xong sẽ tránh được khả năng bị nhiễm cái xấu của hệ thống hiện tại. Áp lực có việc làm và tồn tại khi quay về ngay có thể làm cho một số du học sinh bị đặt trong tình trạng không có lựa chọn nào khác. Hậu quả là có thể một số người sẽ phải phải “uốn mình” và chấp nhận những quy tắc bất thành văn hay bị “đồng hóa” bởi hệ thống hiện tại. Đây là điều rất đáng sợ cho tương lai của Việt Nam. Khi đã có vị trí ổn định ở bên ngoài, việc trở về hay những đóng góp cho đất nước của du học sinh sẽ ở thế ngẩng cao đầu. Lúc đó, tác dụng và ảnh hưởng có khả năng sẽ lớn hơn rất nhiều so với việc trở về ngay.
Thứ năm, việc du học sinh chưa trở về nhiều chỉ ra những trục trặc nghiêm trọng của hệ thống trong nước hiện nay. Tính dung hợp hay dung nạp của thể chế để các cá nhân có thể khẳng định mình là chưa nhiều, trong khi tính loại trừ là rất cao. Do vậy, nhiều du học sinh chưa thấy “đất dụng võ” nên chưa về.
Nhìn vào động thái và cách hành xử của phần lớn du học sinh có thể hình dung được tương lai của Việt Nam. Nếu nhiều người trở về hay có cơ hội đóng góp cho sự phát triển của Việt Nam thì cơ hội sánh vai với các cường quốc năm châu sẽ lớn. Ngược lại, nếu nhiều người phải chọn cách thức gửi tiền về thì Việt Nam tiếp tục thuộc nhóm quán quân kiều hối, nhưng luôn lẹt đẹt ở phía sau. Việc về hay ở của du học sinh phụ thuộc vào môi trường thể chế. Nếu có sự cải cách triệt để để tạo ra thể chế dung nạp thì tương lai của Việt Nam sẽ xán lạn. Ngược lại, nếu tính loại trừ hay bóc lột của hệ thống hiện tại tiếp tục được dung dưỡng thì tương lai của đất nước sẽ rất u ám.
Tóm lại, việc ở hay về của du học sinh không phải là vấn đề cần quan tâm quá mức. Trọng tâm lúc này nên là tạo dựng môi trường để hầu hết mọi người đều có thể tìm được đất dụng võ mà chúng có lợi cho sự phát triển của Việt Nam. Đây là nhiệm vụ của cả xã hội, nhưng Nhà nước phải là người lĩnh ấn tiên phong.
LỜI KẾT
Điều quan trọng đối với Việt Nam là nếu có nhiều người trở về hoặc muốn chung tay đóng góp cho sự phát triển của đất nước thì chúng ta có thể sớm trở nên phát triển. Ngược lại, nếu Việt Nam cứ muốn nằm trong nhóm quán quân kiều hối thì tương lai phía trước có khả năng cao là sẽ rất u ám.
Trong thời đại toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, cùng vốn các dòng vốn và dòng hàng hóa, dòng nhân lực đang được dịch chuyển hết sức tự do. Chuyện về hay ở của du học sinh là một quá trình tự nhiên và lựa chọn của mỗi người trong các hoàn cảnh khác nhau. Hầu hết mọi người sẽ chọn nơi nào cảm thấy mình có giá trị nhất hay nói một cách đơn giản là nơi mà họ có thể đảm bảo được cuộc sống ở mức cần thiết đồng thời cũng thi thố được tài năng của mình. Đóng góp hay cống hiến là điều có thể đặt ra nhưng không nên lấy đó là vấn đề chính hay yếu tố quyết định.
Do vậy, việc cần làm ngay của Việt Nam là tạo ra một môi trường tốt để nhiều người trở về theo những hình thức khác nhau (toàn thời gian hay một phần thời gian chẳng hạn) hoặc có những cách thức chung tay khác nhau nhằm tạo ra nhiều của cải cho đất nước chứ đừng để kiều hối trở thành một nguồn thu nhập chính của quốc gia. Khi kiều hối còn được tôn vinh thì quốc gia khó mà phát triển.
Tác giả,
Bình Minh
* Bài viết có sử dụng một số nội dung trong một số bài viết của tác giả đã đăng trên các báo ở Việt Nam