
Bài dự thi HTNM4 – Thể loại Bài Viết
Đồng hành cùng quê hương: Từ trong suy nghĩ tới hành động.
Tác giả: Phạm Ngọc Duy
Lời dẫn: Khi nhận được thông báo về cuộc thi này, tôi đang bận bịu khá nhiều việc. Đọc qua chủ đề và thể lệ cuộc thi, có cái gì đó thôi thúc tôi từ bên trong là tôi sẽ phải viết một bài. Bởi vì chủ đề này quá phù hợp với tâm trạng và những gì tôi đã và đang làm. Tuy nhiên, do có quá nhiều việc nên phải đến khi gần sát hạn nộp bài rồi tôi mới viết được. Sự nhiệt tình của BTC đã làm tôi bật máy tính mang ra phòng sinh hoạt chung của nơi tôi đang ở để viết bài này. Xin được cảm ơn BTC vì sự nhiệt huyết và kiên tâm của các bạn.
Cảm xúc xa quê
Đây đã là năm thứ 6 kể từ khi tôi tạm rời xa Việt Nam đi tu nghiệp, nhưng mỗi lần đọc hoặc nhận được tin tiêu cực gì về cuộc sống người dân hay tình hình đất nước, tôi vẫn xúc động và đồng cảm như những ngày đầu xa quê hương. Tôi đã từng chảy nước mắt và cảm thấy uất nghẹn trong họng khi nghe tin tàu cá của ngư dân mình bị “tàu lạ” đâm chìm giữa biển khơi. Khi nghe tin các đồng chí phi công hy sinh khi đi làm nhiệm vụ, tôi cũng đã khóc trước màn hình máy tính và viết những cảm xúc dồn nén trong mình thành một bài thơ để bày tỏ lòng kính trọng và chia sẻ với các anh và gia đình. Còn rất nhiều chuyện khác nữa, từ chuyện môi trường cho đến giáo dục, chuyện an toàn thực phẩm… Câu chuyện nào về quê hương cũng luôn để lại cho tôi nhiều xúc cảm và làm tôi tự vấn bản thân mình xem liệu mình – vốn là một cá nhân bé nhỏ – có thể làm gì để quê hương, đất nước mình được an lành, thịnh vượng, văn minh, phát triển hơn.
Thế rồi những xúc cảm đó cũng cứ lần lượt trôi qua. Thay vào đó, cuộc sống, những trách nhiệm với công việc và gia đình cứ chiếm hầu hết mọi thời gian và tâm sức của tôi. Tuy nhiên, cho dù làm gì, cho dù học cái gì, nghiên cứu chủ đề nào, làm việc gì, hai chữ Việt Nam vẫn luôn hiện hữu một cách vô thức hoặc hữu ý trong tất cả những điều đó. Thậm chí, các thầy cô giáo, bạn bè của tôi ở trong trường tôi đang học cũng biết được điều này trong con người tôi. Trong bài luận tuyển sinh vào chương trình tôi đang học, tôi cũng viết rằng tôi muốn học để rồi sau đó tôi có thể cống hiến tốt hơn cho giáo dục của Việt Nam. Các thầy cô giáo tôi trân trọng điều đó và mỗi khi có dự án nghiên cứu nào có vẻ phù hợp hoặc hữu ích cho giáo dục Việt Nam họ vẫn luôn tạo điều kiện hết mức để tôi có thể tham gia và học hỏi.
Đồng hành từ trong suy nghĩ
Từ khi là một cậu bé đang học ở cấp 2, tôi biết rằng tôi sẽ đi làm giáo dục. Được truyền cảm hứng từ cuộc đời một số thầy cô giáo mà tôi được dịp học hỏi và diện kiến, tôi đã luôn tự hỏi tại sao giáo dục Việt Nam lại có nhiều vấn đề đến vậy, tại sao trải qua rất nhiều cải cách, đổi mới và đầu tư nhiều nguồn lực, giáo dục Việt Nam vẫn cứ bị cho là lạc hậu, thiếu hiệu quả đến vậy. Rồi thì tôi quyết định vào học Sư Phạm Toán để có thể tham gia trực tiếp vào môi trường giáo dục nước nhà. Rồi thì cuộc đời đẩy đưa, tôi bước chân sang Châu Âu để học sâu về Toán trong lần đi du học đầu tiên. Ngồi trong thư viện với quyển sách Toán trước mặt, tâm trí tôi vẫn luôn nghĩ về những vấn đề sát sườn của giáo dục nước nhà như chương trình, sách giáo khoa, đào tạo giáo viên, thi tuyển sinh; tôi chợt hiểu rằng toán học không phải là con đường dành cho mình. Tôi sẽ phải tìm một con đường khác, trực tiếp hơn, để thỏa mãn ước mơ cải tổ giáo dục mà mình ôm ấp từ khi còn bé.
Vậy là tôi quay về Việt Nam và làm việc trong một trường đại học để tìm hiểu những vấn đề cấp thiết cần cho giáo dục đại học Việt Nam như đảm bảo – kiểm định chất lượng, quốc tế hóa giáo dục đại học. Tôi lại tìm cách đi du học lần thứ hai để được học những thứ mình thực sự muốn. Trong quá trình học thạc sỹ về Quản lý Giáo dục ở Boston College, những kinh nghiệm và dự định của tôi về những gì tôi muốn làm cho giáo dục Việt Nam luôn là yếu tố chi phối mọi quyết định trong việc chọn học khóa học nào, chọn đọc về chủ đề nào, chọn viết về vấn đề gì. Ví dụ, tôi thấy giáo dục đại học ở Việt Nam đang cần đảm bảo và kiểm định chất lượng, tôi học về chủ đề đó. Tôi nhờ thầy giáo giới thiệu tôi đến Hiệp hội kiểm định các trường đại học ở khu vực New England của Hoa Kỳ để tìm hiểu sâu thêm về chủ đề này. Tôi thấy Việt Nam cũng cần phát triển một vài đại học nghiên cứu hoa tiêu, tôi tìm đọc và làm khóa luận về chủ đề này. Vấn đề lãnh đạo trong giáo dục ở cấp phổ thông cũng cần thiết cho Việt Nam, tôi cũng đã đăng ký học một khóa học về chủ đề này. Vậy đấy, giấc mơ từ thuở thiếu thời là sợi chỉ đỏ xuyên suốt các quyết định và định hướng học tập, nghiên cứu về giáo dục của tôi.
Sau khi hoàn thành khóa học thạc sỹ, tôi về nước lần thứ hai và làm việc tại Đại học Quốc gia Hà Nội (ĐHQGHN). Nhận thấy việc thi cử ảnh hưởng phần lớn tới cách dạy và học của giáo viên và học sinh; thay đổi bài thi sẽ là cách nhanh nhất, rộng nhất để thay đổi cách dạy và học của hệ thống giáo dục; tôi lại giúp ĐHQGHN kết nối với một số trường đại học và tổ chức khảo thí lớn nhất ở Hoa Kỳ để từng bước xây dựng được hệ thống tuyển sinh mới dựa trên các bài thi chuẩn hóa kiểu như SAT, ACT.
Chính kinh nghiệm làm việc ở ĐHQGHN trong mảng khảo thí đã tạo điều kiện cho tôi có được cơ hội đi làm nghiên cứu sinh về lĩnh vực này ở trường tôi đang học. Tuy nhiên, đi làm tiến sỹ hoặc quay trở lại Mỹ lần thứ hai không phải là mục tiêu quan trọng nhất của tôi. Nếu những gì tôi đã học được từ Boston College đủ để đóng góp hiệu quả cho giáo dục Việt Nam, tôi có thể đã không cần phải đi làm nghiên cứu sinh. Tuy nhiên, sau khi làm việc gần 3 năm ở ĐHQGHN, tôi cảm thấy mình đã “hết vốn” và việc đi học thêm có lẽ là tất yếu để tôi có thể có thêm nhiều đóng góp hiệu quả và có sức ảnh hưởng lớn hơn đối với giáo dục Việt Nam. Tôi cũng nghiệm ra rằng, chính vì luôn tâm niệm đóng góp cho đất nước, tôi mới được gặp nhiều may mắn và nhận được nhiều sự giúp đỡ và đồng cảm từ người khác đến vậy. Không có kinh nghiệm làm việc ở ĐHQGHN về khảo thí, tôi chưa chắc đã được vào học ở nơi tôi đang học hiện nay. Nếu tôi không gắn suy nghĩ về cải tổ giáo dục Việt Nam với mọi hành động và hướng nghiên cứu của mình thì tôi đã không được các thầy cô giáo, đồng nghiệp tạo điều kiện và ủng hộ đến vậy.
Đồng hành trong từng hành động
Hiện nay, cho dù vẫn đang tiếp tục học tập và nghiên cứu về đo lường và tâm trắc học giáo dục ở Hoa Kỳ, tôi vẫn tiếp tục giữ liên hệ với các đồng nghiệp cũ của mình ở ĐHQGHN để có thể hỗ trợ họ về mặt kỹ thuật và quan hệ quốc tế khi cần. Tôi đã và đang tiếp tục kết nối các thầy cô giáo của mình ở Mỹ với các đồng nghiệp của mình ở Việt Nam. Hè này, ngoài việc làm việc về mặt chuyên môn trong khuôn khổ chuyến thực tập hè ở ACT, tôi cũng hết sức nỗ lực để thuyết phục ACT chia sẻ kinh nghiệm phát triển các công cụ đo lường với ĐHQGHN và cùng hợp tác vì lợi ích chung của hai tổ chức cũng như của học sinh, sinh viên và xã hội Việt Nam. Tôi tin rằng khi các kết nối được thiết lập cũng là mở ra các cơ hội mới có lợi cho tất cả các bên.
Giáo dục Việt Nam và việc đổi mới thi cử, tuyển sinh
Dựa trên kinh nghiệm, kiến thức và trải nghiệm của mình về việc tổ chức thi cử, tuyển sinh ở Việt Nam, ở Hoa Kỳ cũng như một số nước khác trên thế giới, tôi thấy những gì đang diễn ra trong mảng này ở Việt Nam cho thấy nhiều chỉ dấu tích cực cần tiếp tục phát huy. Việc tuyển sinh đã được quy định trong Luật Giáo dục là thuộc quyền chủ động của các cơ sở giáo dục đại học ([1]). Vấn đề hiện nay là phải tiếp tục cùng nhau xây dựng các thành tố của một hệ thống tuyển sinh linh hoạt, hiệu quả, nhân bản. Việc tách THI ra khỏi TUYỂN cũng đã có những bước tiến bộ đầu tiên và khá vững chắc. Với việc ĐHQGHN có thể cung cấp những giải pháp thi tuyển sinh dần tiệp cận trình độ quốc tế, chúng ta có cơ sở để xây dựng được một hệ thống tuyển sinh linh hoạt và hiệu quả, hạn chế tối đa tiêu cực và ít gây căng thẳng cho xã hội ([2], [3]). Việc cần làm tiếp theo đó là các cơ sở giáo dục đại học cần tiếp tục xây dựng và đưa và thử nghiệm các quy trình tuyển sinh đại học dựa trên các kết quả đo lường độc lập, có độ chính xác cao. Các trường có thể thử nghiệm tuyển sinh theo quy trình mới hướng tới việc đánh giá toàn diện ứng viên hơn cho một số chương trình đào tạo như một số cơ sở giáo dục đã tiến hành trong những năm vừa qua ([4]). Rút kinh nghiệm từ những thử nghiệm này, các trường có thể từng bước nhân rộng việc áp dụng quy trình tuyển sinh mới trong phạm vi toàn trường.
Khi kỳ thi tuyển sinh đại học được các tổ chức độc lập tiến hành, việc đổi mới kỳ thi tốt nghiệp trung học phổ thông (THPT) quốc gia và xét tuyển tốt nghiệp cũng cần được xem xét thấu đáo. Do mục đích kỳ thi tốt nghiệp và thi tuyển sinh đại học có thể tương đối khác nhau, việc gộp hai kỳ thi vào làm một có thể tạo ra nhiều điểm phức tạp trong việc xây dựng bài thi, xác trị kết quả thi cũng như sử dụng kết quả thi ([5]). Trong tình huống này, kinh nghiệm quốc tế ở một số nền giáo dục được công nhận là có chất lượng có thể hữu ích. Bang Massachusetts ở Hoa Kỳ không tổ chức kỳ thi tốt nghiệp THPT vào cuối năm học lớp 12. Ở bang này, các kỳ thi này được tổ chức vào cuối năm lớp 10 và kết quả kỳ thi này được sử dụng cùng với nhiều tiêu chí khác như điểm trung bình các môn, số lượng ngày đi học trong năm v.v để xét tốt nghiệp khi học sinh học xong lớp 12 ([6]). Lý do của chính sách này nằm ở chỗ bang Massachusetts muốn các học sinh, các thầy cô giáo và phụ huynh sớm nắm được học lực của người học trong quá trình học ở THPT để có kế hoạch trợ giúp phù hợp để tăng tối đa khả năng tốt nghiệp THPT của người học. Đề thi tốt nghiệp của bang này do vậy được xây dựng theo hướng gắn chặt với chương trình mà học sinh được học trên lớp. Học sinh nếu chưa đạt yêu cầu tối thiểu ở lần thi đầu tiên có thể thi lại nhiều lần sau đó trước khi học xong lớp 12. Chính sách này làm giảm áp lực thi cử và tạo điều kiện cho học sinh chủ động trong các kế hoạch học tập, thi cử của mình ([7]).
Từ kinh nghiệm của bang Massachusetts, Việt Nam có thể cân nhắc tổ chức kỳ thi đo lường học lực của học sinh trong những năm học lớp 10 hoặc lớp 11 ở bậc THPT. Kết quả các bài thi này là những chỉ báo để người học nắm được lộ trình học tập của mình cũng như giúp thầy cô giáo theo dõi và hỗ trợ người học tiến bộ khi cần thiết. Các bài thi này có thể sử dụng ngân hàng câu hỏi chung của do các cơ quan hoặc tổ chức giáo dục có chuyên môn. Mọi người có thể lo lắng rằng nếu tổ chức thi tốt nghiệp vào năm học lớp 10 hay 11 sẽ làm cho học sinh không chịu học một số môn năm lớp 12. Đây là một lo lắng có cơ sở. Tuy nhiên, nếu đề thi đại học được thiết kế hợp lý theo hướng bao phủ những nội dung kiến thức cơ bản trải rộng suốt các môn học trong toàn bộ chương trình THPT, thì có thể giúp giải quyết tình trạng lơ là một số môn học trong năm học cuối cấp.
Thay cho lời kết:
Tôi tin là nước mắt tôi vẫn sẽ rơi mỗi khi nghe hoặc đọc được một tin không vui nào đó về Việt Nam hoặc những con người Việt Nam đáng trọng nào đó. Và Việt Nam đã, đang và vẫn sẽ luôn là một phần quan trọng nhất trong các quyết định và bước đường sự nghiệp của tôi. Mới gần đây nhất, trong một buổi nói chuyện với lãnh đạo cao cấp của một tổ chức mà tôi có thể cân nhắc làm việc sau khi tốt nghiệp, tôi có nói với ông rằng “Sau khi tốt nghiệp, tôi sẽ chọn làm ở nơi mà nơi đó sẵn sàng làm việc với Việt Nam để giúp chúng tôi có một nền giáo dục tốt hơn!”.
Viết tại Coralville, Iowa, tối ngày 22 tháng 7 năm 2016.
Tác giả: Phạm Ngọc Duy
Học bổng Fulbright tại Boston College (2009 – 2011)
Nghiên cứu sinh Tiến sỹ về đo lường và tâm trắc học giáo dục tại Đại học Massachusetts Amherst (2014 – nay)
[1] Luật giáo dục đại học Việt Nam 2012.
http://www.chinhphu.vn/portal/page/portal/chinhphu/hethongvanban%3Fclass_id%3D1%26mode%3Ddetail%26document_id%3D163054
[2] Kỳ thi đánh giá năng lực của ĐHQGHN: Minh bạch, thuận tiện, tiết kiệm, an toàn.
http://cet.vnu.edu.vn/ky-thi-danh-gia-nang-luc-cua-dhqghn-minh-bach-thuan-tien-tiet-kiem-an-toan
[3] Bộ GD-ĐT: Thi đánh giá năng lực hạn chế tối đa tiêu cực.
http://vietnamnet.vn/vn/giao-duc/tuyen-sinh/303375/bo-gd-dt-thi-danh-gia-nang-luc-han-che-toi-da-tieu-cuc.html
[4] Tuyển sinh đại học 2016: Tuyển sinh bằng bài luận, thư giới thiệu ở Đại học Quốc gia Tp. Hồ Chí Minh.
http://edufac.edu.vn/tuyen-sinh-dai-hoc-2016-tuyen-sinh-bang-bai-luan-thu-gioi-thieu-o-dai-hoc-quoc-gia-tphcm
[5] American Educational Research Association, American Psychological Association, National Council on Measurement in Education, Joint Committee on Standards for Educational, & Psychological Testing (US). (1999). Standards for educational and psychological testing. Amer Educational Research Assn.
[6] Massachusetts Comprehensive Assessment System: High School Graduation Requirements, Scholarships, and Academic Support Opportunities.
http://www.doe.mass.edu/mcas/graduation.html
[7] Trao đổi trực tiếp với GS. Ronald Hambleton, Đại học Massachusetts Amherst, Học kỳ mùa Thu, 2014.