
Đây là bài sưu tầm. Bài viết gốc được đăng trên Thepresentwriter.com, blog về bài học cuộc sống và phát triển bản thân tại Mỹ. Tác giả: Chi Nguyễn
Từ khi bắt đầu học Tiến sĩ, tôi nhận được rất nhiều câu hỏi về quá trình apply, học tập, và cuộc sống của nghiên cứu sinh tại Mỹ.
Nhiều bạn đọc The Present Writer cũng muốn được đọc thêm về đề tài này. Mặc dù có nhiều điều muốn chia sẻ, tôi nhận thấy kinh nghiệm và kiến thức của mình về việc du học còn hạn hẹp trong ngành Giáo dục nói riêng và khối ngành Xã hội nói chung, trong khi đó rất nhiều bạn ở Việt Nam quan tâm đến khối Khoa học-Kỹ thuật.
Vì vậy, tôi đã liên hệ với một người bạn thân của tôi là Tiệp Vũ (Vũ Hữu Tiệp), nghiên cứu sinh ngành Electrical Engineering (Kỹ sư điện tử) để thực hiện cùng bài viết này. Bài viết hoàn toàn dựa trên cuộc trò chuyện giữa tôi và Tiệp, để giữ cho câu chuyện được tự nhiên nhất, tôi chủ đích giữ ngôi xưng đúng như cách chúng tôi nói chuyện thực tế. Đây là lần đầu tiên blog thử nghiệm phong cách đối thoại/phỏng vấn. Chúng tôi hy vọng bài viết này giúp bạn đọc phần nào hiểu thêm về quá trình apply, học tập, và cuộc sống của nghiên cứu sinh tại nước ngoài. Hãy chia sẻ bài viết cho người thân, bạn bè, và tất cả những ai có ước mơ du học!
Một số nét về hai nhân vật giới thiệu trong bài:
- Chi Nguyễn: Tốt nghiệp Đại học Hà Nội (ngành Quốc tế học/International Studies) năm 2011. Tốt nghiệp Thạc sĩ trường University of Pennsylvania (ngành Education, Culture, & Society) năm 2014. Theo học Tiến sĩ (PhD) trường Pennsylvania State University (2 ngành: Educational Leadership và International & Comparative Education) từ năm 2014. Nghiên cứu về bình đẳng giáo dục, giáo dục so sánh, và xã hội học. Viết blog The Present Writer về bài học cuộc sống và phát triển bản thân: www.thepresentwriter.com
- Tiệp Vũ: Tốt nghiệp Đại học Bách Khoa Hà Nội (ngành Kỹ sư điện tử Viễn thông) năm 2012. Theo học Tiến sĩ (PhD) trường Pennsylvania State University (ngành Electrical Engineering) từ năm 2013. Nghiên cứu về Trí tuệ nhân tạo trong xử lý ảnh (ví dụ, nhận dạng khuôn mặt) — chi tiết trên website cá nhân. Thực hiện trang Youtube hướng dẫn cách sử dụng ngôn ngữ LaTeX bằng tiếng Việt.
- Chi và Tiệp quen nhau trong một nhóm tự học GRE (kỳ thi chuẩn hoá cho cao học) năm 2012. Cùng với hơn 10 anh chị em (rất giỏi và đầy nghị lực!) trong nhóm, Tiệp và Chi apply thành công và cùng đi học ở Mỹ vào học kỳ mùa thu năm 2013.
1. Quá trình apply
Chi: Quá trình apply vào các trường Đại học ở Mỹ của bọn mình thực sực có rất nhiều điều đáng nhớ. Tiệp có thể chia sẻ về hành trình nộp học của mình được không?
Tiệp: Thực sự mà nói, quá trình nộp học rất dài và nhiều bước nhỏ, hầu hết là không tên. Nếu tính từ thời điểm bắt đầu có ý định đi du học đến lúc nộp hồ sơ của mình thì khoảng 2-3 năm, chứ không phải chỉ vài tháng lúc thực sự bắt tay vào làm hồ sơ. Tuy nhiên, mình sẽ nói ngắn gọn chỉ trong 4 tháng cuối, thời điểm bắt đầu từ lúc vào nhóm GRE với bạn và mọi người. Trong 3 tháng học GRE (tháng 8-11/2012), điều tuyệt vời nhất có lẽ không phải là kiến thức luyện thi mà là được quen biết với mọi người trong nhóm. Cả nhóm giúp đỡ nhau rất nhiều, từ việc học, đăng ký thi, đến tìm trường, cổ vũ động viên tinh thần lẫn nhau. Đây là nguồn động lực rất quan trọng trong thời điểm đó! Ngay cả khi đã thi xong GRE, dù mọi người không còn học cùng nữa những vẫn gặp nhau, giúp nhau hoàn thành hồ sơ trong 1 tháng cuối cam go để kịp nộp cho các trường vào giữa tháng 12 hoặc đầu tháng 1.
Sau khi lọt được qua vòng hồ sơ, mình có cuộc phỏng vấn với giáo sư, chính là giáo sư mình làm việc cùng bây giờ. Cuộc phỏng vấn này rất quan trọng vì giáo sư là người trực tiếp quyết định cho mình học hay không (chứ không phải trường hoặc khoa như một số ngành khác). Sau khi vào trường, mình sẽ làm việc trực tiếp và nhận lương từ giáo sư. Ngay trong quá trình chuẩn bị hồ sơ, mình đã phải sớm tìm giáo sư phù hợp. Cách mình làm là vào website riêng của từng giáo sư hoặc forum sinh viên để tìm hiểu xem giáo sư có đang cần tuyển nghiên cứu sinh không, hướng nghiên cứu có phù hợp với khả năng của mình không… rồi viết thư liên hệ với họ. Tất nhiên là không phải giáo sư nào cũng trả lời. Có một vài giáo sư trả lời là họ không còn nhận nghiên cứu sinh nữa, hoặc có nhận nghiên cứu sinh nhưng không có nguồn tiền tài trợ, cũng có những giáo sư không có kế hoạch tuyển nhưng có giới thiệu mình cho giáo sư khác. Giáo sư hiện tại của mình là một trong những người trả lời tích cực nhất, khuyến khích mình nộp hồ sơ ngay từ đầu, và hẹn phỏng vấn sau 2 tháng nộp hồ sơ. Cuộc phỏng vấn diễn ra khá suôn sẻ và giáo sư nói khoảng tháng 3 (1 tháng sau phỏng vấn) sẽ có kết quả. Tới cuối tháng 3 mà vẫn chưa nhận được quyết định, mình khá sốt ruột vì các trường khác đều đã báo trượt. Rất may mắn là vài ngày sau khi email hỏi, mình được giáo email lại nói rằng funding proposal mới được thông qua và mình được nhận.
Chi: Tớ vẫn nhớ cái ngày hôm cậu nhận được kết quả! Cảm giác vỡ oà không thể quên được!
Tiệp: Đúng rồi, tớ gọi cho bạn ngay khi biết tin! (cười)
Chi: Đúng là quá trình nộp hồ sơ từ lúc chuẩn bị đến lúc biết kết quả là cả một cuộc hành trình với rất nhiều bước đi nhỏ. Tớ muốn quay lại nói về việc học GRE một chút vì bọn mình cùng có xuất phát điểm là lớp GRE. Cậu cũng biết là trước đây tớ rất sợ GRE vì ngành của tớ là ngành Xã hội nên tớ nghĩ yêu cầu đầu vào với phần Verbal (từ vựng) phải cao lắm, trong khi đó những từ của GRE thì thực sự rất hiếm khi dùng, kể cả đối với người Mỹ. Tớ rất chật vật với GRE, sau lần thi với cậu, tớ còn vào Sài Gòn thi thêm một lần nữa nhưng điểm vẫn không tăng lên nên rất stress. Nhưng sau này, khi vào học, tớ mới nhận ra là ngành của tớ họ không coi trọng điểm GRE như mình tưởng tượng, nó chỉ có yếu tố tham khảo, một phần rất nhỏ của hồ sơ thôi. Thậm chí, giáo sư của tớ còn nói rằng những kỳ thi chuẩn hoá này chỉ là công cụ kiếm tiền của các tổ chức khảo thí thôi chứ không phải cái gì cao siêu quá. Do vậy, tớ nghĩ những bạn nào đang chuẩn bị hồ sơ cao học, đừng nên stress quá nhiều vì các kỳ thi chuẩn hoá. Mình vẫn nên học và vẫn nên thi, nhưng năng lượng nên tập trung vào giai đoạn thứ 2—như Tiệp đã nói—là giai đoạn hoàn thiện hồ sơ nộp cho trường.
Tiệp: Đúng vậy! Đối với ngành kỹ thuật như của tớ thì khi vào trường, giáo sư nói luôn là điểm Verbal không quá quan trọng. Chỉ có điểm Toán không được thấp quá, để nhìn qua thấy khả năng của mình như thế nào thôi. Điểm GRE, hay cả GPA (điểm trung bình môn) cũng không quá quan trọng. Quan trọng là bạn có kinh nghiệm nghiên cứu chưa, nếu có bài nghiên cứu nào đã được xuất bản (publication) thì càng tốt.
Chi: Nói về vấn đề kinh nghiệm nghiên cứu, tớ thấy nộp cho ngành Xã hội và ngành Kỹ thuật có đôi chút khác nhau. Ví dụ như trường hợp của tớ và cậu. Cậu nộp thằng cho chương trình PhD, còn tớ nộp cả cho Master và PhD. Đầu tiên tớ được nhận PhD của Penn State trước nhưng năm đó trường không có nguồn funding cho tớ. Trong khi đó, UPenn lại cho tớ một phần học bổng học Master nên tớ quyết định bảo lưu PhD để học Master trước. Đối với tớ, đây là quyết định sáng suốt bởi vì ở thời điểm đó, tớ chưa có nhiều kiến thức về Giáo dục Mỹ, cách làm nghiên cứu ở Việt Nam cũng rất khác ở bên này, nên 1 năm học Master thực sự giúp tớ chuẩn bị tốt hơn nhiều. Đối với ngành của tớ, hầu như mọi người đều phải có bằng Master trước rồi mới học PhD. Nhưng ngành của cậu thì nộp thẳng từ Đại học lên PhD có vẻ là hướng đi chung?
Tiệp: Ừ. Ngành của tớ nộp thẳng như vậy là bình thường. Ngoài ra, đối với tớ, nếu cho học bổng một phần tớ cũng không có điều kiện học được, bắt buộc phải có học bổng toàn phần. Bên Mỹ học Master rất khó kiếm học bổng toàn phần, trong khi đó PhD thì dễ kiếm học bổng hơn vì mình làm việc cho giáo sư, ông ấy cũng là người trực tiếp trả lương cho mình.
Chi: Ngành của tớ cũng vậy! Kiếm học bổng toàn phần Master vô cùng khó. Nhưng nếu không có Master, lại càng khó hơn để kiếm được học bổng PhD. Ngay các bạn Mỹ học cùng tớ cũng vậy, họ toàn có Master rồi đi học, đi làm, nghiên cứu hàng bao nhiêu năm mới quyết định nộp và xin funding (nguồn tiền tài trợ) học PhD. Đối với ngành xã hội, kinh nghiệm là rất quan trọng, mà phải có thời gian mới tích luỹ được nhiều kinh nghiệm nghiên cứu và thực tiễn như vậy.
Tiệp: Nộp cho Master và cho PhD cũng rất khác nhau. Master thường là xin học bổng của trường còn PhD là xin funding trực tiếp từ giáo sư. Nên đối với PhD (ngành kỹ thuật của mình), việc liên hệ được với giáo sư là rất quan trọng.
Chi: Đúng rồi! Tớ thấy rất nhiều sinh viên quốc tế ngại liên hệ với giáo sư, ngày xưa tớ cũng vậy. Mình cứ sợ, cứ ngại, không biết viết gì cho họ, họ có trả lời không, rồi họ nghĩ gì về mình. Nhưng nếu mình không liên hệ với họ thì mình thật không biết họ có nhu cầu tuyển nghiên cứu sinh không, có nguồn tiền không. Nhiều khi mình đầu tư bao nhiêu thời gian, công sức để hoàn thành hồ sơ rồi bị từ chối mà không biết lý do thực sự chỉ là giáo sư không có tiêu chuẩn tuyển thêm người thì rất là phí.
Tiệp: Trong nội dung bức thư gửi giáo sư nên giới thiệu chung về bản thân (tốt nghiệp ở đâu, nghiên cứu gì, điểm mạnh là gì, muốn làm gì trong tương lai), nói rằng đã tham khảo trang của giáo sư và thấy có những điểm chung gì, và sau đó hỏi luôn giáo sư có kế hoạch tuyển người không và nói nguyện vọng của mình. Nếu có thể, đính kèm CV của mình hoặc đường link đến trang web cá nhân. Không nên soạn một thư chung rồi gửi đi hàng loạt giáo sư, nhìn là người ta biết ngay, họ sẽ không hứng thú đọc đâu!
Chi: Ngoài ra tớ nghĩ nếu bạn nào đã ở Mỹ sẵn thì rất nên hẹn gặp trực tiếp giáo sư. Đây là một lợi thế. Năm thứ 2 tớ nộp lại PhD, tớ có đến trường nói chuyện với một số giáo sư trong Khoa và biết được là nguồn tiền cho nghiên cứu sinh là từ Khoa rót xuống (vì ngành Giáo dục có ngân sách rất nhỏ, khác với ngành kỹ thuật). Vì thế, tớ tìm gặp chủ nhiệm Khoa và giới thiệu bản thân trực tiếp với thầy ấy, tớ nghĩ cuộc gặp đấy thực sự rất quan trọng.
Tiệp: Nhiều khi việc được hay không được cũng do hên xui nữa. Nhưng hên xui không có nghĩa là mặc cho số phận. Mình phải tự tạo thật nhiều cơ hội để sẵn sàng đón nhận may mắn. Nếu mình không làm gì mà chỉ ngồi đợi may mắn đến thì sẽ không bao giờ thành hiện thực. Tất cả đều là từ nỗ lực bản thân mình, và chỉ cần một cơ hội được may mắn rơi trúng là mình đã thành công rồi.
Chi: Nói về cơ hội, một điểm chung thú vị giữa tớ và cậu là cả hai đều đi dưới dạng “tự do” xin học bổng của trường chứ không có ràng buộc học bổng của nhà nước hay các tổ chức khác như VEF hay Fullbright. Tớ muốn nhấn mạnh điểm này vì rất nhiều bạn nghĩ chỉ có thể đi du học với học bổng của nhà nước hay của các tổ chức thôi, chứ không biết đến nguồn học bổng từ trường. Tớ nhớ một lần Tiệp được mời nói chuyện ở một buổi nói chuyện về du học và sau buổi nói chuyện, nhiều bạn đến nói là các bạn cứ nghĩ phải có học bổng của nhà nước hay tổ chức mới có thể đi du học và rất ngạc nhiên về trường hợp của cậu.
Tiệp: Nếu bạn xin được học bổng của nhà nước hay các tổ chức lớn thì rất tốt, đảm bảo bạn nộp học bên này khả năng được nhận là rất cao vì đã qua một bộ lọc uy tín rồi. Nhưng nếu bạn nào chưa hoặc không kịp nộp [cho các nguồn học bổng ngoài] hoặc nộp rồi mà chưa được, bạn vẫn hoàn toàn có cơ hội nộp và xin học bổng trực tiếp từ trường hoặc giáo sư như cách của mình.
Chi: Đúng vậy! Nếu bạn nào đang đọc bài này, mơ ước đi du học, và lo lắng mình không cạnh tranh được để lấy suất học bổng nhà nước hoặc các tổ chức lớn, bọn mình muốn các bạn biết rằng có rất nhiều cơ hội khác. Bạn hãy kiên nhẫn, không ngừng tìm tòi, và đừng bao giờ để mất hy vọng!
(kết phần 1)
Phần 2 của cuộc nói chuyện này sẽ xoay quanh (1) việc học và nghiên cứu ở Mỹ và (2) đời sống của nghiên cứu sinh. Mong bạn đọc tiếp tục đón xem và chia sẻ series bài viết này đến tất cả bạn bè, người thân, học trò, đồng nghiệp—những ai đang có ước mơ học cao học nước ngoài. Hẹn gặp mọi người vào Phần 2.
Đây là bài sưu tầm. Bài viết gốc được đăng trên Thepresentwriter.com, blog về bài học cuộc sống và phát triển bản thân tại Mỹ. Tác giả: Chi Nguyễn
Theo http://thepresentwriter.com/
Xem bài gốc tại đây