“Muốn làm nghiên cứu sinh tại Mỹ, ngoài chứng minh được năng lực học tập, vốn ngoại ngữ tốt, bạn cần phải kiên trì đủ để có thể theo đuổi từ 4-5 năm, nhiều khi còn đối diện với việc đứt gánh giữa đường” Đấy là những chia sẻ chân tình từ chị Khánh Hòa, đã tốt nghiệp PhD ngành Kinh tế ứng dụng tại đại học Missouri – Hoa Kỳ.
Theo chị Hòa chia sẻ, làm nghiên cứu cũng giống như một công việc được trả lương tại Mỹ. Giáo sư như một chủ doanh nghiệp nhỏ, họ thuê ứng viên để nghiên cứu một đề tài nhất định và họ chi trả toàn bộ chi phí cho giai đoạn nghiên cứu, học tập của bạn, đủ để trang trải sinh hoạt những năm làm nghiên cứu sinh (kéo dài từ 3-6 năm). Đây là mô hình phổ biến đối với các bạn nhận funding trực tiếp từ giáo sư, và là research assistant (trợ lý nghiên cứu) vì nguồn chi trả đến từ tiền dự án (grant). Đối với các bạn là teaching assistant (trợ giảng) thì nguồn tiền chủ yếu đến từ việc giảng dạy các lớp bậc đại học và theo đó yêu cầu công việc cũng có khác hơn một chút. Trường hợp cũng khá phổ biến đó là trong 4-5 năm đó NCS cũng sẽ tham gia vào cả hai việc, vừa làm nghiên cứu vừa làm trợ giảng để hỗ trợ giáo sư, hoặc là để có thêm kinh nghiệm sau này đi xin việc. Kinh nghiệm giảng dạy tương đối quan trọng đối với bạn nào dự định sẽ nộp hồ sơ vào các trường đại học làm giảng viên (assistant professor) nhưng sẽ không quan trọng lắm với các công việc chỉ đơn thuần là nghiên cứu như research scientist hay làm tại các công ty.
Trước khi bước vào con đường nghiên cứu, chị Hòa từng học thạc sĩ 2 năm tại Mỹ với chuyên ngành kinh tế ứng dụng. Tuy nhiên sau thời gian học tập, chị cảm thấy kiến thức chưa đủ chuyên sâu trong lĩnh vực mình đang tìm hiểu nên quyết định tiếp tục theo học cao hơn. Yêu cầu nộp đơn học PhD ở Mỹ, như chị chia sẻ, không bắt buộc bạn phải có Master, nhưng đảm bảo các yếu tố như: Điểm GPA đại học tối thiểu đạt 3.0, yêu cầu bằng tiếng Anh phù hợp điều kiện trường đưa ra, mặc dù không yêu cầu phải đề xuất dự án nghiên cứu nhưng các thành tích hay kinh nghiệm có liên quan sẽ được coi trọng. Nhìn chung, tiêu chí lựa chọn ứng viên phụ thuộc nhiều vào giáo sư (lĩnh vực liên quan có phù hợp, đủ nguồn tiền để thực hiện nghiên cứu, số lượng ứng viên cần tuyển…). Nếu bạn muốn học một ngành không liên quan đến ngành bạn từng học tại bậc đại học hoặc thạc sĩ, bạn vẫn có thể nộp đơn. Trường hợp được lựa chọn, trường sẽ yêu cầu bạn lấy các lớp căn bản (presequisite) để có nền tảng trước khi được nhận học chính thức.
“Mình lên mạng xem website từng trường – những trường nào có khoa kinh tế ứng dụng, đọc hồ sơ từng giáo sư, lần mò CV của họ rồi thấy ai làm về lĩnh vực nào hay hoặc có dự án đã làm ở Việt Nam thì gửi email hỏi” – Chị chia sẻ.
PhD không phải là cái gì quá cao siêu mà đơn thuần là một lựa chọn cho những người yêu thích công việc nghiên cứu. Điều đó có nghĩa là bạn có thể phải ngồi máy tính hơn 8 tiếng một ngày liên tục trong nhiều tháng, hay thức khuya làm việc ở phòng thí nghiệm trong nhiều năm. Một khi xác định theo học PhD, bạn cần đối diện với sự thật về con đường đầy chướng ngại, có khi bế tắc, có khi khó khăn, có khi cô đơn, có khi chán nản… “Nhiều khi thấy mình đang đi vào một đường hầm tối đen, kết quả chưa thấy đâu, số liệu lung tung, chẳng hiểu làm vì cái gì, trải qua nhiều cung bậc cảm xúc, cảm thấy bế tắc về đề tài và hướng đi. Nhiều bạn đang học dở thì bỗng dưng giáo sư hết nguồn tiền hỗ trợ, đành phải ngậm ngùi chuyển sang giáo sư khác hoặc trường khác, hoặc dự án khác”.
Trước khi nộp hồ sơ bạn cũng nên dành một chút thời gian xem xét về dự định nghề nghiệp sau khi tốt nghiệp. Cũng rất dễ hiểu là nhiều bạn khi ở Việt Nam chỉ mau chóng muốn đi du học, và PhD đôi khi là lựa chọn tốt nhất vì dễ có học bổng hơn thay vì học Master. Tuy nhiên sau 4-5 năm học, bạn sẽ có rất nhiều kinh nghiệm chuyên sâu trong lĩnh vực nghiên cứu của mình, và nếu may mắn bạn sẽ tìm được một công việc để tiếp tục sự nghiệp nghiên cứu đó, có thể là làm giáo sư hoặc làm ở một viện nghiên cứu hay một phòng thí nghiệm. Nếu bạn nhận học bổng từ các nguồn khác mà có ràng buộc về visa thì đây có thể là một trở ngại lớn nếu bạn muốn tiếp tục làm việc ở Mỹ sau khi tốt nghiệp. Những vấn đề này nên cân nhắc kĩ trước khi bạn quyết định làm NCS ở Mỹ.
Một trong những kì vọng khi theo học PhD là bạn có bài nghiên cứu (academic paper) đăng trên các tạp chí khoa học (academic journal) uy tín trong lĩnh vực của mình. Bạn cần biết được yêu cầu của khoa hoặc của giáo sư hướng dẫn cụ thể là bao nhiêu bài, ở tạp chí xếp hạng nào, mặc dù đối với một số ngành điều này không bắt buộc. Thường bài viết sẽ được gửi đến 2 hoặc 3 reviewer trong cũng lĩnh vực để đọc và cho ý kiến nhận xét. Theo chị Hòa, quy định gửi bài, kiểm duyệt và đăng trong ngành kinh tế mất trung bình khoảng một năm rưỡi. (Bắt đầu gửi bản thảo đầu tiên đến khi nhận hồi âm sẽ mất từ 3-6 tháng, sau khi nhận hồi âm, bạn sẽ trả lời các câu hỏi của reviewer một cách thuyết phục nhất và chỉnh sửa lại các tính toán nếu cần thiết. Sau khi gửi trả lời reviewer sẽ có thể tiếp tục gửi lại câu hỏi nếu chưa cảm thấy hài lòng. Bạn có thể mất 3 lần hỏi-hồi đáp như vậy cho đến khi được đăng).
Là một người làm nghiên cứu, chị Hòa cũng cho rằng một kết luận của một bài báo chỉ là hạt cát trong biển lớn. Cùng một vấn đề, có khi hai người đưa ra quan điểm khác nhau hoàn toàn vì sử dụng bộ số liệu khác nhau, phương pháp nghiên cứu khác nhau. Do đó khi nghe ai nói trích dẫn từ tạp chí khoa học, dù uy tín, chúng ta cũng nên cẩn trọng trong việc đánh đồng điều đó là sự thật. Bản chất của khoa học là giúp chúng ta đi gần tới sự thật, kết luận khoa học cũng thay đổi theo thời gian. “Kinh nghiệm từ việc làm nghiên cứu đã dạy cho mình một thói quen là không tin ngay vào bất cứ điều gì mình nghe, nhìn, đọc được. Luôn cần phải kiểm chứng (fact-checking) bằng cách tra cứu nhiều nguồn khác nhau và tự rút ra kết luận cho riêng mình”.
“Khoa học giúp bạn có cái nhìn hệ thống, nhưng common sense là cái không thể thiếu được để cho bạn những quyết định đúng đắn” – chị Hòa chia sẻ.
Đấy cũng là vấn đề của người làm nghiên cứu chuyên sâu, đôi khi mất đi sự nhạy cảm đối với cuộc sống và xã hội xung quanh mình. Đối với các bạn du học sinh thì một trở ngại lớn hơn nữa là hòa nhập vào đời sống ở Mỹ.
“Điều này tương đối khó khi mà bạn phải dành gần như toàn bộ cuộc sống của mình cho bài vở, các kì thi và công việc nghiên cứu nhiều áp lực. Nhưng nếu bạn xác định có một nghề nghiệp lâu dài ở Mỹ thì việc tranh thủ nâng cao các kĩ năng giao tiếp, lãnh đạo, hiểu biết về văn hóa sẽ cực kì quan trọng trong một xã hội đa dạng sắc tộc và liên tục tiến lên như ở Mỹ. Điều này tương đối khác với văn hóa Á Đông”.
Để bù vào sự thiếu hụt về kĩ năng xã hội, trong những năm học PhD chị Hòa luôn cố gắng tham gia tích cực vào các hoạt động của hội sinh viên Việt Nam cũng như các hoạt động cộng đồng trong thành phố.
“Nhìn lại, mình thấy những trải nghiệm đó có khi còn quý báu hơn một bài báo khoa học. Nó giúp mình hiểu hơn về người Mỹ, về xã hội Mỹ và những thiếu hụt trong tư duy mà nếu như không có những trải nghiệm này mình sẽ không bao giờ có thể nhận ra.”
————-
Profile:
Hoàng Khánh Hòa
PhD, Agricultural and Applied Economics
University of Missouri-Columbia
Research Associate, Food and Agricultural Policy Research Institute (FAPRI)
President of the Vietnamese Student Association at Mizzou, 2010-2011 & 2016-2017
Ban biên tập sinhvienusa