Góc phố
- Link bình chọn bài viết tại website
- Link bình chọn bài viết tại facebook
- Bài viết khác cùng chuyên mục
Tôi hỏi một chị phụ nữ da màu cùng đứng ở một góc phố, chờ qua đường: “Đây là phố gì hả chị?” Chị nhíu mày nhìn tôi, chắc chị ngạc nhiên lắm là trông mắt tôi sáng trưng, biển ghi tên phố thì to lù lù ngay trước mắt, sao tôi lại hỏi. Chẳng lẽ tôi không biết đọc? Tôi bèn giải thích qua loa rằng tôi là người khiếm thị. Chị liên hồi xin lỗi là đã không biết điều đó. Rồi chị cho tôi biết tên phố, hỏi tôi đi đâu, có cần chị giúp không. Đèn bật sáng, chị hối hả nắm tay tôi dắt qua đường. Chị ái ngại nhìn tôi đầy vẻ cảm thông. Tôi nói tôi đã in sẵn bản đồ, đi đến đoạn nào không rõ đường, tôi sẽ hỏi tiếp. Tôi cám ơn chị, rồi hăm hở bước đi. Tôi thấy nhẹ lòng bởi trong những hoàn cảnh tương tự như thế, không ít người bảo tôi mù hay sao mà lại hỏi câu ngớ ngẩn như thế. Lòng ngập tràn lạc quan, tôi đã không bị phân biệt đối xử vì hàng ngày, dù ở đâu trong thành phố này, tôi cũng gặp những người bình dị, tử tế và nhân hậu như chị. Tôi không biết tên chị. Thật chán. Nhưng nếu tôi hỏi tên tất cả những người dắt tay tôi qua phố trong “Hành trình nước Mỹ” của mình, e rằng bộ não bé tẹo của tôi không có cách nào chứa nổi. Và chẳng giấy bút nào có thể ghi được hết.
Trường đại học
“Mời chị đến Phòng “Mất và Tìm thấy” (Lost and Found) nhận lại chiếc ví chị đánh rơihồi chiều. Chị nhớ mang giấy tờ tuỳ thân nhé”. Tôi mừng muốn chết. Sau khi cảm ơn cô gái ở Phòng An ninh gọi đến, tôi vội vã lao vào trường. Cô nhân viên của Phòng “Mất và Tìm thấy” hỏi tôi có bao nhiên tiền mặt trong ví và có nhận đủ không. Khi trình báo là mất ví, tôi chỉ dám mong ước là còn giấy tờ chứ tiền thì… khó mà còn vì đã có lần bọn trộm “tốt bụng” móc ví của tôi tại bảo tàng Louvre đã để lại giấy tờ sau khi lấy sạch tiền. Tôi trình thẻ sinh viên và được nhận lại chiếc ví còn nguyên toàn bộ thẻ tín dụng, 100 đô-la tiền mặt và một số giấy tờ khác.
Tôi được biết người nhặt chiếc ví này và mang đến Phòng “Mất và Tìm thấy” là một nhân viên dọn vệ sinh. Họ là những người có thu nhập thấp và nói tiếng Anh không được thạo cho lắm. Tôi nhờ cô gái giao ví cho tôi chuyển lời cảm ơn đến người đó. Mỗi khi thấy người đẩy xe dọn rác trong trường, trong tôi luôn trào dâng niềm kính trọng. Tôi thường ở trường muộn vì cảm giác thực sự an toàn khi sống với những người trung thực và thật thà như thế.
Sân bay Quốc tế
Tôi chìa hộ chiếu và vé máy bay cho cô nhân viên hãng hàng không American Airlines. Sau khi làm xong thủ tục, cô đưa lại hộ chiếu cho tôivà thẻ lên máy bay. Tầm nhìn của tôi chỉ giới hạn trong khuôn mặt cô, nên tôi không nhìn thấy tay cô đưa giấy tờ cho tôi. Cô nhắc tôi một lần nữa, tôi mới vội vã chìa tay ra, ngượng ngùng xin lỗi và giải thích với cô là tôi có vấn đề về mắt. Cô bối rối nhìn tôi, rồi bước ra khỏi vị trí đang làm việc, đưa tận tay tôi mọi thứ giấy tờ. Cô hỏi tôi có tự đến được cửa kiểm tra an ninh không. Nếu không đi được thì cô sẽ dắt tôi ra. Tôi bảo tôi tự đi được, tuy nhiên cô không yên tâm chút nào. Cô dặn dò tôi kỹ lưỡng cách đi đến đó, chỉ từng chiếc thẻ lên máy bay, nơi chuyển máy bay, cách tìm đến chỗ nào để hỏi thông tin và sự trợ giúp. Một chuyến bay dài 24 giờ, chuyển máy bay 2 lần trở nên hết sức nhẹ nhàng. Và nỗi lo sợ của người khiếm thị như tôi mỗi khi phải đi một mình hầu như tan biến. Chuyện như thế này xảy ra với tôi thường xuyên trong mỗi chuyến bay, cả trong nước Mỹ và ra nước ngoài.
Bệnh viện
Tôi hết sức bối rối khi hai cô y tá nhẹ nhàng đỡ tôi ngồi dậy sau khi họ rút kim tiêm để lấy tế bào làm sinh thiết. Mũi tiêm chỉ làm ta nhói đau như bị muỗi đốt và chẳng có bất kì một dấu hiệu nào có thể gây nguy hiểm như chảy máu, hoặc nhiễm trùng. Phòng chờ trong bệnh viện lại sạch sẽ và ngập tràn nhạc Mozart, khiến tôi phấn chấn đến mức không nghĩ mình đang là bệnh nhân với mối lo ngại có thể bị ung thư sau khi biết kết qủa xét nghiệm này. Họ hỏi tôi: “Chị có lạnh không?”. “Vâng, tôi hơi lạnh”. Trong cái giá rét -10 độ C của miền New England vào tháng giêng mà không kêu rét mới là lạ. Nhưng tôi hoàn toàn khoẻ mạnh, tỉnh táo và có thể chạy bộ vài cây số trong cái lạnh hết sức dịu dàng, dễ chịu ấy. Thế rồi họ vội vàng đi tất cho tôi như mẹ thường làm khi tôi còn đi nhà trẻ. Tôi ngượng ngùng nói: “Để tôi tự làm lấy”. Họ mỉm cười: “Chị yên tâm để chúng tôi săn sóc chị. Chúng tôi làm thế này để được trả lương. Điều quan trọng nhất là chúng tôi phải đảm bảo cho chị hoàn toàn khoẻ mạnh khi ra khỏi bệnh viện và không có bất cứ một sự cố nào xảy ra khi chị về nhà”. Trên đường về, tôi cứ miên man suy nghĩ về tính chuyên nghiệp của các y bác sỹ và quên khuấy nỗi lo lắng trước khi đến bệnh viện.
Đồn cảnh sát
Đã hơn 11 giờ đêm mà con gái tôi chưa về. Cháu không có điện thoại cầm tay. Cháu đi học nhóm, rồi đi làm thêm vào buổi tối. Thông thường cháu về nhà muộn nhất là 9 giờ tối. Chúng tôi sống trong khu phố yên tĩnh, phía sau một cánh rừng thưa. Tôi lao vào đồn cảnh sát, lắp bắp trình bày với người trực đêm, tên là Dmitri. Anh chăm chú lắng nghe, ghi chép và hỏi tôi lần cuối gặp cháu khi nào, mô tả quần áo cháu mặc trước khi đi. Tôi bình tĩnh hơn khi Dmitri chấn an tinh thần. Bỗng điện thoại của tôi rung chuông. Anh giật lấy nghe. Anh nghĩ cháu có thể bị bắt cóc và bọn tống tiền chắc sẽ gọi đến đe dọa và đòi tiền. Hóa ra con tôi gọi. Cháu về muộn vì phải làm thêm, cháu không dám về khuya một mình khi qua cánh rừng, mà về nhà bạn trong thành phố gần đó. Xe buýt chạy thưa thớt về đêm, nên mất cả tiếng cháu mới về đến nhà bạn rồi gọi cho tôi. Dmitri dặn dò con gái tôi, rồi thông báo cho tôi ngày hôm sau cháu sẽ về nhà. Anh bảo tôi lần sau có việc gì cần thì gọi cho anh. Đây là lần đầu tiên tôi nhờ cậy cảnh sát. Thông thường, người nước ngoài và dân nhập cư ngại gọi cảnh sát, nhưng trải nghiệm của tôi là sự an toàn và tin cậy nơi họ.
Bạn đọc thân mến, những câu chuyện trên đây xảy ra ở Boston và Cambridge, bang Massachusetts. Nhiều người biết đến những thành phố này như một trung tâm tri thức nhân loại, như chiếc nôi của cách mạng Mỹ. Dòng sông Charles hiền hoà chảy quanh thành phố và là gianh giới giữa Boston và Cambridge. Nó rực rỡ, lung linh và huyền ảo hơn vào ngày Quốc khánh mồng 4 tháng 7 trong âm thanh dìu dặt của nhạc Tchaicovsky. Có đến ngàn lẻ một lí do để yêu quý nơi này. Nhưng với tôi, những con người nhân hậu đã gắn bó tôi với hai thành phố ấy. Tôi luôn cảm thấy ấm áp như trở về nhà mỗi lần máy bay từ từ hạ cánh xuống sân bay Logan. Dưới kia là biển xanh, những con phố nhấp nhô, những chiếc ô tô nối đuôi nhau như nước chảy. Và tôi biết trong dòng người xuôi ngược ấy là những người hàng ngày tôi gặp, những người đã “dắt tôi qua quãng đời sinh viên”*.
Thanh Hương
*Lấy ý trong bài hát “Cây đàn sinh viên”, sáng tác: Quốc An